Hiện nay kinh tế Việt Nam đang phát triển, nhưng kéo theo đó thì tình trạng lạm phát gây mất giá đồng tiền cũng nhanh chóng. Nguyên nhân nào gây ra lạm phát, cùng tìm hiểu ngay nhé!
Table of Contents
Lạm phát là gì?
Lạm phát là sự tăng mức giá chung một cách liên tục của hàng hóa và dịch vụ theo thời gian và sự mất giá trị của một loại tiền tệ nào đó. Khi mức giá chung tăng cao, một đơn vị tiền tệ sẽ mua được ít hàng hóa và dịch vụ hơn so với trước đây, do đó lạm phát phản ánh sự suy giảm sức mua trên một đơn vị tiền tệ.
Lạm phát có 3 mức độ:
- Lạm phát tự nhiên: 0 – dưới 10%
- Lạm phát phi mã: 10% đến dưới 1000%
- Siêu lạm phát: trên 1000%
Trong thực tế, các quốc gia chỉ kỳ vọng lạm phát chỉ xảy ra khoảng 5% trở xuống. Bạn thử nghĩ đi, một năm tăng trưởng kinh tế kỳ vọng khoảng 10% thì tiền mất giá tầm 5% là vừa đủ đẹp. Tính ra quốc gia đó có 5% tăng trưởng thực sự.

Tác động của lạm phát
Tác động tiêu cực

a/ Lãi suất
Khi lạm phát tăng cao, muốn lãi suất thực ổn định thì lãi suất danh nghĩa phải tăng lên cùng tỷ lệ lạm phát. Việc tăng lãi suất danh nghĩa dẫn đến hậu quả nền kinh tế suy thoái và thất ngiệp.
b/ Thu nhập thực tế và phân phối thu nhập bình đẳng
Giữa thu nhập thực tế và thu nhập danh nghĩa của người lao động có quan hệ với nhau qua tỷ lệ lạm phát. Lạm phát tăng nhưng thu nhập danh nghĩa không đổi khiến thu nhập thực tế bị giảm xuống. Lạm phát không chỉ giảm giá trị thật của những tài sản không có lãi mà còn làm hao mòn giá trị của những tài sản có lãi do chính sách nhà nước tính lãi theo cơ sở thu nhập danh nghĩa.
Hậu quả là suy thoái kinh tế, thất nghiệp gia tăng, đời sống người lao động khó khăn và mất niềm tin vào chính phủ.
c/ Nợ quốc gia
Lạm phát cao giúp chính phủ nhận được khoản lợi từ thuế đánh vào thu nhập của người dân. Tuy nhiên, khoản nợ nước ngoài trở nên trầm trọng hơn do tỷ giá đồng tiền trong nước trở nên mất giá so với đồng tiền nước ngoài tính trên các khoản nợ.
Tác động tích cực

Khi tốc độ lạm phát từ 2 – 5% ở các nước phát triển và dưới 10% đối với các nước đang phát triển là một tín hiệu tốt mang lại các nguồn lợi sau đây:
– Kích thích tiêu dùng, vay nơ, đầu tư giảm bớt thất nghiệp trong xã hội
– Chính phủ có nhiều lựa chọn các công cụ kích thích đầu tư vào các lĩnh vực kém ưu tiên bằng việc mở rộng tín dụng, phân phối lại thu nhập và các nguồn lực trong xã hội.
Nguyên nhân gây ra lạm phát
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng lạm phát, trong đó “lạm phát do cầu kéo” và “lạm phát do chi phí đẩy” được coi là hai nguyê nhân chính. Cân đối thu chi là việc làm cần thiết để tránh khỏi lạm phát khi xảy ra. Chi tiết các nguyên nhân:
Lạm phát do cầu kéo
– Lạm phát do cầu kéo: Khi nhu cầu của thị trường về một mặt hàng nào đó tăng lên sẽ kéo theo sự tăng lên về giá cả của mặt hàng đó. Giá cả của các mặt hàng khác cũng theo đó mà leo thang, dẫn đến sự tăng giá của hầu hết các loại hàng hóa trên thị trường. Lạm phát do sự tăng lên về cầu (nhu cầu tiêu dùng của thị trường tăng) được gọi là “lạm phát do cầu kéo”. VD: như giá xăng tăng lên, kéo theo rất nhiều sản phẩm khác tăng theo như giá cước taxi, giá hoa quả…
Lạm phát do chi phí đẩy
– Lạm phát do chi phí đẩy: Chi phí đẩy của các doanh nghiệp bao gồm tiền lương, giá cả nguyên liệu đầu vào, máy móc, chi phí bảo hiểm cho công nhân, thuế… Khi giá cả của một hoặc vài yếu tố này tăng lên thì tổng chi phí sản xuất của các doanh nghiệp chắc chắn cũng tăng lên, vì thế mà giá thành sản phẩm cũng sẽ tăng lên nhằm bảo toàn lợi nhuận và như thế là mức giá chung của toàn thể nền kinh tế cũng sẽ tăng
Lạm phát do cơ cấu
– Lạm phát do cơ cấu: Với ngành kinh doanh có hiệu quả, doanh nghiệp tăng dần tiền công “danh nghĩa” cho người lao động. Nhưng cũng có những nhóm ngành kinh doanh không hiệu quả, các doanh nghiệp cũng theo xu thế đó buộc phải tăng tiền công cho người lao động. Nhưng vì những doanh nghiệp này kinh doanh kém hiệu quả, nên khi phải tăng tiền công cho người lao động, các doanh nghiệp này buộc phải tăng giá thành sản phẩm để đảm bảo mức lợi nhuận và làm phát sinh lạm phát.
Lạm phát do cầu thay đổi
– Lạm phát do cầu thay đổi: Khi thị trường đang giảm nhu cầu tiêu thụ về một mặt hàng nào đó, sẽ dẫn đến lượng cầu về một mặt hàng khác lại tăng lên. Và nếu thị trường có người cung cấp độc quyền về giá cả có tính chất cứng nhắc (chỉ có thể tăng mà không thể giảm, như giá điện ở Việt Nam), thì mặt hàng mà lượng cầu giảm vẫn không giảm giá. Trong khi đó mặt hàng có lượng cầu tăng thì lại tăng giá. Kết quả là mức giá chung tăng lên, dẫn đến lạm phát.
Lạm phát do xuất khẩu
– Lạm phát do xuất khẩu: Khi xuất khẩu tăng, dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng cung (thị trường tiêu thụ lượng hàng nhiều hơn cung cấp), khi đó sản phẩm được thu gom cho xuất khẩu khiến lượng hàng cung cho thị trường trong nước giảm (hút hàng trong nước) khiến tổng cung trong nước thấp hơn tổng cầu. Khi tổng cung và tổng cầu mất cân bằng sẽ nảy sinh lạm phát.
Lạm phát do nhập khẩu
– Lạm phát do nhập khẩu: Khi giá hàng hóa nhập khẩu tăng (do thuế nhập khẩu tăng hoặc do giá cả trên thế giới tăng) thì giá bán sản phẩm đó trong nước sẽ phải tăng lên. Khi mức giá chung bị giá nhập khẩu đội lên sẽ hình thành lạm phát.
Lạm phát tiền tệ
– Lạm phát tiền tệ: Khi cung lượng tiền lưu hành trong nước tăng, chẳng hạn do ngân hàng trung ương mua ngoại tệ vào để giữ cho đồng tiền trong nước khỏi mất giá so với ngoại tệ; hay do ngân hàng trung ương mua công trái theo yêu cầu của nhà nước làm cho lượng tiền trong lưu thông tăng lên cũng là nguyên nhân gây ra lạm phát.
Cách tính lạm phát
Lạm phát được đo lường bằng cách theo dõi sự thay đổi giá cả của một lượng lớn các hàng hóa và dịch vụ trong một nền kinh tế, thông thường dựa trên dữ liệu được thu thập bởi các tổ chức Nhà nước, các liên đoàn lao động và các tạp chí kinh doanh…
Giá cả của các loại hàng hóa và dịch vụ được tổ hợp với nhau để đưa ra một chỉ số giá cả đo mức giá cả trung bình, là mức giá trung bình của một tập hợp các sản phẩm. Tỷ lệ lạm phát là tỷ lệ phần trăm mức tăng của chỉ số này.
Không tồn tại một phép đo chính xác duy nhất cho chỉ số lạm phát vì giá trị của chỉ số này phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hàng hóa trong chỉ số, cũng như phụ thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó được thực hiện.
Hiện nay, thước đo lạm phát phổ biến nhất chính là chỉ số giá tiêu dùng CPI (consumer price index) là chỉ số đo giá cả của một số lượng lớn các loại hàng hóa và dịch vụ, bao gồm thực phẩm, lương thực, chi trả cho các dịch vụ y tế…, được mua bởi “người tiêu dùng thông thường”.
Ví dụ: Vào tháng 1 năm 2016, chỉ số giá tiêu dùng CPI của Mỹ là 202,416 USD; và vào tháng 1 năm 2017 thì chỉ sổ CPI là là 211,080 USD. Sử dụng công thức để tính toán tỷ lệ phần trăm lạm phát hàng năm bằng chỉ số CPI trong suốt năm 2017 là
((211,080 – 202,416)/ 202,416) x 100% = 4.28%
Từ đó ta ra kết quả là tỷ lệ lạm phát đối với CPI trong khoảng thời gian một năm này là 4,28%, có nghĩa là mức giá chung cho người tiêu dùng điển hình của Mỹ trong 2017 đã tăng khoảng hơn 4% so với năm 2016.
Biện pháp kiểm soát lạm phát

Lạm phát là vấn đề cấp thiết, quan trọng hàng đầu của một nền kinh tế. Do đó, việc nghiên cứu tìm ra các biện pháp chống lạm phát là mục tiêu hàng đầu của các nhà kinh tế.
* Biện pháp :
– Giảm lượng tiền giấy lưu thông để giảm bớt nhàn rỗi dư thừa bằng cách:
- Phát hành trái phiếu
- Tăng lãi suất gửi tiền
- Giảm sức ép lên giá cả dịch vụ
- Lưu thông bitcoin
- Mở rộng hệ thống sử dụng ATM
– Thực hiện chính sách tài chính thắt chặt:
- Kiện toàn bộ máy nhà nước
- Cắt giảm đầu tư công, kiểm soát chặt chẽ đầu tư doanh nghiệp nhà nước, giảm tỷ lệ thâm hụt ngân sách
– Thúc đẩy phát triển sản xuất hàng hóa và mở rộng lưu thông hàng hóa.
- Khuyến khích tự do mậu dịch
- Gỉam thuế quan
- Đầu tư hệ thống logistic
– Vay viện trợ nước ngoài
– Cải cách tiền tệ
Các chỉ số đo lượng lạm phát
Các chỉ số giá tiêu dùng hay chỉ số giá cả CPI: chúng được tính theo bình quân giá trị của một nhóm các loại mặt hàng thiết yếu.
Hiện nay ở Việt Nam thì giá của nhóm mặt hàng lương thực, thực phẩm, vàng, đôla là nhóm có trọng lượng rất lớn. Khi đó chỉ số này sẽ không làm ảnh hưởng đến sự biến động, nhưng ngược lại thì nó lại phảm ánh quá trình biến động giá cả, và ảnh hưởng nhiều đến đời sống và tiêu dùng của người.